Thiết lập hồ thủy sinh tự nhiên
VNRD: Diana Walstad cũng là tác giả cuốn sách nổi tiếng Hệ sinh thái trong Hồ Thủy Sinh (Ecology of the Planted Aquarium). “Hồ thủy sinh tự nhiên” hay còn gọi là “hồ low-tech” nhấn mạnh đến việc ứng dụng triệt để các “quy trình tự nhiên” (natural processes) để mang lại trạng thái cân bằng cho hồ thủy sinh với liều lượng chiếu sáng, lọc ở mức độ vừa phải kết hợp với nền tự trộn. Đây là cách thức duy nhất để duy trì hồ thủy sinh trong cả thế kỷ trước khi các dụng cụ thủy sinh chuyên dụng xuất hiện, tuy nhiên Diana đã đưa nó lên một tầm cao mới với những kiến giải sâu sắc về sinh học. Lưu ý phân biệt khái niệm “hồ thủy sinh tự nhiên” (natural planted aquarium) với “phong cách thủy sinh tự nhiên” (Nature Aquarium) do Takashi Amano khởi xướng, nhấn mạnh đến việc mô phỏng phong cảnh tự nhiên kết hợp với bố cục chặt chẽ.
Bí quyết căn bản của một hồ thủy sinh tự nhiên bao gồm lớp đất nền, độ cứng trung bình, cây thủy sinh đa dạng và chiếu sáng đầy đủ. Tuy đơn giản nhưng bí quyết này có thể áp dụng cho nhiều hồ thủy sinh kể cả loại hồ có bố cục tinh tế. Đa phần cây thủy sinh trong những hồ cao cấp (high-tech) như vậy thường phát triển vượt bậc nhưng lại bỏ qua các quy trình tự nhiên và yêu cầu chăm sóc cần thiết; ngược lại, hồ thủy sinh tự nhiên áp dụng các quy trình tự nhiên một cách triệt để. Chẳng hạn, quá trình phân hủy chất hữu cơ của vi khuẩn làm phát sinh CO2 một cách tự nhiên, không phải là CO2 nhân tạo. Và chất thải của cá, chứ không phải phân bón hóa học, cung cấp chất dinh dưỡng cho cây và làm đất nền màu mỡ.
Các loại đất nền
Đất nền là vấn đề mấu chốt đối với hồ thủy sinh tự nhiên. Nó cung cấp CO2 để đảm bảo cây phát triển tốt và cung cấp chất dinh dưỡng cho rễ, giúp cây có lợi thế cạnh tranh với tảo. Tuy nhiên, việc sử dụng đất nền trong hồ thủy sinh có thể là vấn đề. Mục tiêu đầu tiên của người chơi hầu như là tìm kiếm loại đất nền hoàn hảo nhưng không hề có loại nào như vậy hết. Trong nhiều năm trời, tôi thường sử dụng những loại đất nền không lý tưởng lắm (chẳng hạn đất chứa nhiều đất sét, đất trồng cây giàu phân bón). Tôi đã sai khi cho rằng đất nền càng giàu phân bón thì cây càng phát triển tốt. Như vậy, những nền dưới-mức-lý-tưởng này sẽ ổn định sau vài tháng và hoạt động cực tốt trong nhiều năm trời.
Những loại nền thương mại nhìn chung không phù hợp với hồ thủy sinh tự nhiên bởi vì chúng được thiết kế cho những hồ cao cấp với đầu phun CO2, phân hóa học và không chứa nhiều thành phần hữu cơ để cung cấp đủ CO2 cho cây. Trong hồ thủy sinh tự nhiên, vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ và tạo ra CO2 hòa tan trong nước. Khi thiết lập một hệ thống như vậy, mọi người hoàn toàn có thể thấy hiện tượng bong bóng khí CO2 thoát ra từ nền đất.
Đất trồng cây không chứa phân bón gây rất ít vấn đề khi bắt đầu và đem lại kết quả tốt nhất về lâu dài. Tôi hiện đang sử dụng một loại đất trồng cây hữu cơ tổng hợp rất phổ biến và chứa những thành phần dinh dưỡng cơ bản. Bởi vì loại đất trồng cây đặc biệt này là loại hữu cơ, nên nó không hề chứa phân hóa học vô cơ.
Phân vô cơ có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng đối với hồ thủy sinh tự nhiên. Chẳng hạn, khi đất trồng cây nằm trong nước, những chất hóa học chứa nitrate (chẳng hạn KNO3 và NH4NO3) sẽ nhanh chóng chuyển thành chất nitrite độc hại. Phân hóa học chứa sulfate (chẳng hạn K2SO4, (NH4)2SO4…) sẽ chuyển hóa thành H2S, loại khí có mùi trứng thối làm chết rễ cây và đe dọa các loài cá ăn đáy. Phân hóa học có thể thích hợp đối với các loại hồ cao cấp nhưng chúng có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng đối với hồ thủy sinh tự nhiên.
Một loại phân mà đôi khi tôi trộn với đất nền đó là hỗn hợp bột xương. Nó chủ yếu cung cấp phốt-phát và can-xi dưới dạng hữu cơ với tốc độ nhả chậm, điều có lẽ kích thích rễ tăng trưởng. Tuy nhiên, tôi chưa từng thử nghiệm loại phân này một cách nghiêm túc và cây dường như vẫn phát triển bình thường dẫu không có nó.
Đất trồng cây hữu cơ không làm nước quá đục do đó giúp hạn chế tần suất thay nước trong giai đoạn thiết lập hồ. Hơn nữa, đất phân rã nhanh hơn so với một số loại đất trải bề mặt thông thường mà một số tiệm có bán. Khi tôi sử dụng một trong số loại đất trải bề mặt này, một màng dầu mỏng xuất hiện trên mặt nước sau ba tuần và một số cá bị chết. Tôi ngờ rằng vụn gỗ tươi tiết ra một số tinh dầu bảo vệ (có lẽ là tinh dầu tuyết tùng, nhựa thông…). Để đảm bảo an toàn cho cá, tôi phải thay nước sau mỗi một đến hai tuần trong hai tháng đầu tiên. Rất nhanh sau đó, hồ trở nên ổn định và hiện giờ không còn vấn đề nào nữa.
Chọn đất nền
Mọi người nên biết rằng nền đất trồng cây trở nên yếm khí nhanh hơn nhiều so với nền giàu đất sét, nền pha đất sét hay nền toàn sỏi. Đấy là bởi vì đất trồng cây chứa nhiều thành phần hữu cơ để vi khuẩn tiêu thụ (tức phân hủy). Quá trình phân hủy tiêu thụ ô-xy và làm cho đất trở nên yếm khí. Do đó, mọi người không nên bố trí lớp đất trồng cây quá dày hay ngăn cản sự trao đổi ô-xy bằng cách đặt lũa, đá hay trải một lớp sỏi hoặc cát dày. Việc hình thành những túi yếm khí sẽ ngăn cản cây tăng trưởng và tạo ra những chất độc hại đối với cá.
Đất trồng cây sẽ hút ô-xy hòa tan trong nước, đặc biệt là trong từ hai đến tám tuần đầu tiên khi sự phân hủy chất hữu cơ trong đất đạt đến đỉnh điểm. Nếu cây tăng trưởng kém và nước không đủ ô-xy hòa tan thì cá sẽ phải nổi lên mặt nước để thở. Giải pháp là nhanh chóng gia tăng mức độ sục khí và/hay khuấy động mặt nước.
Một khi đất nền ngập trong nước, hoạt động của vi khuẩn và sự phân hủy sẽ không ngừng gia tăng trong những tuần đầu tiên. Sự hỗn loạn lúc ban đầu này là một quá trình tự nhiên. Do đó đất nền sẽ xả dưỡng chất vào nước, điều kích thích tảo tăng trưởng. Nếu có quá ít cây hay cây không phát triển tốt, nguồn dưỡng chất sẽ kích thích sự phát triển của tảo. Sự bùng phát của tảo sẽ ngăn cản cây phát triển, từ đó tạo ra một vòng luẩn quẩn: cây chết sẽ tiết thêm dưỡng chất vào nước, càng kích thích tảo hơn nữa, và rễ cây chết sẽ cung cấp chất hữu cơ tươi cho đất, do đó càng làm đất nền yếm khí và càng bất lợi hơn đối với cây.
Mục đích chung của người chơi thủy sinh là phải giúp cây phát triển tốt trước khi đất nền biến động. Bởi vì nếu cây phát triển tốt trong hai tuần đầu tiên, thì chính cây – chứ không phải tảo – sẽ hấp thu hầu hết chất dinh dưỡng được tiết ra. Cây sẽ tạo ra đầy đủ ô-xy để giữ an toàn cho bộ rễ của chúng, và do vậy hồ thủy sinh tự nhiên được thiết lập một cách an toàn với rắc rối tối thiểu.
Chuẩn bị
Hồ thủy sinh tự nhiên phải được thiết lập để cây tăng trưởng một cách tối đa lúc ban đầu. Thiết lập một hồ thủy sinh tự nhiên và đợi vài ngày mới lắp đèn là điều nên tránh. Người mới chơi thường không có đủ cây hay không biết loài nào phù hợp với mình nhất. Có cám dỗ đáng kể để bỏ qua việc trồng cây, đặc biệt là với hồ lớn. Lời khuyên của tôi là, hoặc bạn phải có đủ cây, hoặc sử dụng hồ nhỏ hơn. Nếu bạn có ít cây, thì thà thiết lập hồ 40 lít mà trồng đầy đủ còn hơn hồ 400 lít mà thưa thớt; cơ hội để sở hữu hồ thủy sinh tự nhiên không-sự-cố sẽ lớn hơn rất nhiều.
Việc chiếu sáng phải tuân thủ những hướng dẫn cơ bản dành cho hồ thủy sinh nói chung, và dĩ nhiên hồ thủy sinh cần nhiều ánh sáng hơn so với hồ bình thường.
Thời lượng ngày (day length) đề nghị là tối thiểu 12 tiếng. Về lâu dài, nhiều loài cây thủy sinh không tăng trưởng tốt với thời lượng từ 8 đến 10 giờ. Hiển nhiên, sau vài tuần, chúng sẽ hoàn toàn suy sụp (Kasselmann, 2003). Tôi ngờ rằng thời lượng ngày ngắn ngủi có thể là tín hiệu đối với một số loài cây nhất định rằng mùa sinh trưởng đã kết thúc – có nghĩa đây là lúc ngủ đông và ngưng tăng trưởng. Bởi vì cây và tảo luôn cạnh tranh, sự tăng trưởng chậm của cây thường được diễn dịch thành vấn đề tảo. Trớ trêu thay, một số người có hồ thủy sinh tự nhiên báo cáo rằng họ giải quyết vấn đề tảo chỉ đơn giản bằng cách gia tăng thời lượng chiếu sáng ngày.
Tôi áp dụng thời lượng ngày là 14 giờ (bật đèn lúc 7 giờ sáng và tắt lúc 9 giờ tối). Tuy nhiên, tôi chèn vào 4 giờ nghỉ trưa. Chiếu sáng nhân tạo chỉ trong 10 giờ nhưng cây có thời lượng ngày tổng cộng 14 giờ. Với chế độ nghỉ trưa, cây luôn phát triển tốt mà lại tiết kiệm điện. Vào những tháng mùa hè, khi hồ có xu hướng quá nhiệt thì chế độ nghỉ trưa còn giúp nước hạ nhiệt. Tôi dùng bộ định thời để cung cấp một thời lượng ngày ngày cố định và thuận lợi.
Thiết lập hồ thủy sinh tự nhiên
Việc thiết lập hồ phải mất cả ngày, vì vậy vào Ngày Thiết Lập tôi bắt đầu vào 8 giờ sáng cùng với mọi thứ cần thiết để thiết lập cho một hồ 220 lít. Tôi có một kế hoạch tổng quát cùng với cây, đất nền, đá, sỏi và cát đã chuẩn bị sẵn. Tôi thực hiện theo quy trình sau:
- Tôi nhặt que và những mẩu gỗ lớn ra khỏi đất trồng cây.
- Tôi trộn nửa ly bột xương với từ 8 đến 12 lít đất trồng cây (điều này không bắt buộc).
- Để trang trí, tôi xếp đá xung quanh vùng không trồng cây hình ô-van. Tôi trải một lớp cát mỏng vào đó (khoảng 1 cm). Đá và cát được đặt thẳng xuống đáy hồ.
- Bên cánh trái hồ, tôi trải lớp đất trồng cây mỏng hơn 2.5 cm (đất dày có thể trở nên cực kỳ yếm khí làm chết rễ cây, phá hỏng toàn bộ hồ).
- Bên cánh phải hồ, tôi không trải đất nền mà trải sỏi. Sỏi cung cấp bề mặt để vi khuẩn cư ngụ nhưng không được quá dày để hình thành các túi yếm khí hay đòi hỏi phải làm vệ sinh. Tôi dành riêng vùng này cho những cây trồng trong chậu và nham thạch có dương xỉ bám. Với kiểu thiết kế này, tôi có thể bắt cá mà không phải xới tung cả hồ - tôi lùa chúng về phía bên phải và gắn tấm ngăn hồ. Sau khi lấy các chậu cây và nham thạch ra, tôi có thể vớt cá một cách dễ dàng.
- Tôi châm nước để làm ướt nền nhưng không quá nhão.
- Tôi trồng những cây trồng rễ (rooted plant).
- Sử dụng một cái muỗng lớn, tôi trải sỏi vừa đủ để phủ lớp đất nền. Sau khi bố trí xong, lớp sỏi không được dày hơn 2.5 cm. Cát dùng để phủ lớp đất nền cũng không được dày hơn 2.5 cm.
- Tôi châm nước một cách cẩn thận để tránh làm xáo trộn lớp nền. Khi châm, tôi luôn sử dụng một cái chai (hay bất kỳ vật gì khác) để cản bớt lực nước.
- Rồi tôi bắt đầu trồng cây cắt cắm (stem plant). Tại đây, cần thêm nhiều sỏi và cát để phủ những nơi nền bị bung ra. Tôi cũng sử dụng đá nhỏ để chèn tạm những cây bị bật gốc.
- Nước mới châm hơi bị đục vì vậy tôi xả nước này trước khi châm đầy hồ bằng nước máy cùng với chất khử. Ngày hôm sau, tôi lắp máy lọc rồi thả cá và ốc.
Bảo trì hồ sau khi thiết lập
Hồ này rất dễ bảo trì. Mặc dù một ít tảo xuất hiện trong hai, ba tháng đầu tiên, nhưng cá không hề gặp bất kỳ vấn đề gì.
Nghĩa là tôi luôn phải dự đoán trước những vấn đề trong tám tuần đầu tiên. Trong thời gian này, đất nền tiêu thụ một lượng ô-xy rất lớn. Nó nhả chất dinh dưỡng kích thích tảo phát triển, và nó có thể nhả ta-nanh làm giảm cường độ sáng. Tôi xử lý các vấn đề này bằng những cách thông thường – thay nước, sục khí đầy đủ, gỡ tảo bằng tay và bổ sung than củi vào bộ lọc. Những người sử dụng đất nền giàu dưỡng chất hơn loại của tôi có thể đạt được kết quả tuyệt vời về lâu dài. Tuy nhiên, có lẽ họ phải chăm sóc hồ thường xuyên hơn để vượt qua tám tuần quan trọng đầu tiên.
Đất nền trong nước chắc chắn sẽ phát sinh bọt khí (đa phần là khí CO2) trong tám tuần đầu tiên. Người chơi không nên quá lo lắng; đây chẳng qua là hiện tượng phân hủy, điều chứng tỏ rằng nền có sức sống. Chỉ khi nào bọt khí có mùi trứng thối của H2S thì người chơi mới phải lưu tâm. Bọt khí và xáo trộn ở đáy giúp cho lớp nền thoáng khí. Hiển nhiên, nếu lớp nền trở nên cực kỳ yếm khí và hạn chế sự tăng trưởng của cây, tôi có thể dùng bút chì (hay bất kỳ vật nhọn nào) xỉa xuống để ô-xy có thể thâm nhập vào.
Hồ 220 lít của tôi hiện đang vận hành tốt. Từ khi thiết lập, tôi chỉ tái sắp xếp một ít bên cánh phải hồ, chủ yếu là lấy gạch ra và đặt chậu trồng cây lá kiếm Amazon vào. Việc bảo trì chính hiện nay là tỉa cây để nảy nhánh mới và ngăn không cho một loài xâm chiếm toàn bộ hồ. Nếu tôi lấy cây trồng rễ (rooted plant) ra và làm xáo trộn lớp đất nền, tôi luôn tắt máy lọc trước để hạn chế xáo trộn tối đa. Nước sẽ trong lại vào hôm sau.
Những người khác thiết lập hồ thủy sinh tự nhiên với kết quả ấn tượng và dường như đặc biệt hài lòng với nhu cầu bảo trì thấp của nó.
Lưu ý sau cùng
1. Đa phần vi khuẩn trong lớp nền sử dụng quy trình hấp thụ nitrate (nitrate respiration) hơn là quy trình phân hủy ni-tơ (denitrification) (Gamble, 1977). Quy trình hấp thụ nitrate biến nitrate thành chất nitrite độc hại, trong khi quy trình phân hủy chuyển hóa nitrate thành khí N2 không độc. Do đó, kết cục của phân đạm trong lớp đất trồng cây hầu như chuyển hóa thành nitrite. Bởi vì nitrite không được đất hấp thu nên chúng tan vào nước. Trước đây rất lâu, tôi đã cho rằng sự hiện diện của phân đạm trong đất nền là vô hại. Tôi đã sai vì kết quả dẫn đến chất độc nitrite, trong một số trường hợp, làm chết cá và/hay phát sinh bệnh tật.
2. Vi khuẩn tiêu hao sulfate – nghĩa là những loài chuyển hóa sulfate thành khí độc H2S – đặc biệt hoạt động mạnh trong môi trường yếm khí như ở đất nền trồng cây. Tôi đã làm một thí nghiệm với cây trồng trong những chậu riêng biệt với loại đất khác nhau, có hay không bón phân. Cây tăng trưởng ở chậu đất và cực kỳ èo uột ở chậu trộn phân bón với thành phần sulfate. Thêm nữa, rễ cây bị đen và xốp – vì tác động của H2S. Mặt khác, cây mọc trong đất vườn có đất sét lại tương đối tốt dù chứa phân bón với thành phần sulfate hay không (Walstad, 1994).
3. Tôi ghi nhận sự bất ổn định của đất nền mới trong quyển sách Hệ sinh thái trong Hồ Thủy Sinh (nhà xuất bản Echinodorus, 1999) của mình, trang 130-140. Hình VIII-6 thể hiện mức độ nhả cực nhanh các chất sắt, can-xi và những chất dinh dưỡng khác bắt đầu vào tuần thứ hai và đạt đỉnh điểm tại tuần thứ ba và thứ tư, rồi sau đó giảm dần.
Nguồn: diendancacanh.com
0 nhận xét :