Cá Diếc Anh Đào – Cherry Barb – Puntius titteya
Tên khoa học: Puntius titteya
Tên thông dụng: Diếc anh đào, Cherry barb
Max. kích thước: 5,0 cm / 2 inch
pH: 6,0 – 8,0
dH range: 5 – 19
Nhiệt độ khoảng: 23 – 27 ° C / 73 – 80,5 ° F
Tên thông dụng: Diếc anh đào, Cherry barb
Max. kích thước: 5,0 cm / 2 inch
pH: 6,0 – 8,0
dH range: 5 – 19
Nhiệt độ khoảng: 23 – 27 ° C / 73 – 80,5 ° F
Tên tương tự: Barbus titteya, Capoeta titteya
Từ nguyên: Titteya: xuất hiện
theo sau tên riêng theo địa phương của cá
Phân loại:
Bộ: Cypriniformes
Họ: Cyprinidae
Phân bố:
Loài đặc hữu ở Sri
Lanka nơi chúng bị hạn chế bởi lưu vực sông Kelani và Nilwala thuộc vùng ẩm ướt
phía tây nam hòn đảo, và hệ thống thoát nước nhỏ trong khu vực.
Việc xuất khẩu những
mẫu cá hoang dã từ Sri Lanka hiện đang bị cấm mặc dù việc thu thập chúng rõ
ràng vẫn đang được tiếp tục.
Các báo cáo chỉ ra
rằng những con cá có màu sắc càng tươi sáng thì càng hiếm và có khả năng việc
chọn lọc để mua bán cho các bể nuôi thủy sinh đã thay đổi cấu trúc quần thể
hoang dã.
Người ta nói rằng rất
ít rừng rậm còn được giữ lại do các hoạt động của con người, gây ra hệ quả là
chất lượng nước và môi trường sinh thái đã giảm sút trầm trọng, và rất nhiều
loài cá tự nhiên đang được xem là có nguy cơ tuyệt chủng.
Môi trường sống
“Khu vực ẩm ướt” ở
tây nam Sri Lanka là khu vực có lượng mưa hàng năm từ 2000-3000 mm, đa phần là
vào mùa mưa Tây – Nam giữa tháng 3 và tháng 8.
Đó là một môi trường
nhiệt đới không có thời kỳ khô rõ rệt hay sự thay đổi khí hậu đáng kể, và nhiệt
độ không khí khá ổn định trong cả năm, từ 25-27˚C.
Những điều kiện như
vậy thuận lợi cho sự phát triển của những rừng rậm nhiệt đới ở vùng trũng với
độ cao dưới 1000m AMSL.
Ở Sri Lanka những khu
rừng này chỉ được tìm thấy ở khu vực ẩm ướt và là nơi sinh sống của một tỷ lệ
đáng kể các loài động thực vật đặc hữu của đất nước này với khí hậu ấm áp, ẩm
ướt và thời kỳ dài cách biệt về địa lý đã dẫn tới sự đa dạng sinh học mang tính
địa phương rất đặc biệt.
Tuy nhiên đa phần
chúng đều bị dọn sạch để nhường chỗ cho trồng trọt nông nghiệp, phần nhiều khi
đất nước còn ở dưới chế độ thuộc địa Anh, một phần đáng kể khác trong các cuộc
nội chiến gần đây, và hơn 35% độ che phủ đã mất đi trong giai đoạn 1990-2005.
Năm 2006, chỉ 4,6%
các khu rừng cũ còn sót lại trên những mảnh đất nhỏ lẻ tẻ, hầu hết các khu vực
đều chỉ dưới 10 , một vài trong số đó
hiện đã chính thức trở thành khu bảo tồn.
Rừng Kottawa là một
trong số đó và chỉ có khoảng 15-20 ha rừng ẩm ướt thường xanh, mặc dù khu rừng
kết hợp Kottawa-Kombala che phủ khoảng 1600ha.
Rất nhiều dòng suối
nhỏ từ xa xưa chứa những dòng nước nông trong suốt hoặc hơi mờ đục vắt ngang
các khu bảo tồn và nó đại diện cho môi trường sống đặc trưng của loài cá anh
đào.
Rất ít ánh nắng có
thể xuyên qua các lớp cây, do đó môi trường thủy sinh cần nhiều bóng râm và
nhiệt độ nước có thể tương đối lạnh, trong khi độ cứng và độ truyền dẫn nhìn
chung đều thấp và độ pH axit nhẹ.
Các thực vật vĩ mô
thì hiếm mặc dù chúng có thể mọc dày đặc ở mép, đôi khi có thể mọc lan khắp
chiều rộng của dòng nước, rễ của chúng có thể đâm xuyên bờ xuống dưới nước.
Chất nền đặc trưng
thì nhiều cát nhưng được che phủ bởi một lớp lá với các cành cây vụn.
Các loài cá cùng khu
vực phân bố gồm: Rasboroides
vaterifloris, Puntius bimaculatus, P. kelumi, Pethia
nigrofasciata, Dawkinsia singhala, Schistura notostigma, Mystus
vittatus, Aplocheilus werneri, Channa orientalis, Malpulutta
kretseri, và Mastacembelus armatus.
Chiều dài tiêu chuẩn tối đa: 40 – 50 mm.
Kích thước bể:
Kích cỡ mặt đáy ít nhất phải là 60 x 30 cm
hoặc tương đương.
Bảo dưỡng:
Việc chọn cách trang
trí không quá quan trọng, tuy nhiên nó sẽ đẹp hơn trong bể có chất nền tối màu
và trồng nhiều cây.
Việc cho thêm một vài
cây, gỗ hoặc cành cây, và lớp lá trôi dạt cũng được đánh giá cao và tạo cảm
giác tự nhiên hơn cho bể thủy sinh.
Không cần lọc quá
mạnh nhưng sẽ tốt hơn nếu dòng nước chảy thường xuyên kiểu dòng suối nhỏ.
Điều kiện nước
Nhiệt độ 20 – 27 ˚C
pH: Cá được nuôi sẵn
trong các cửa hàng thích nghi khá tốt khi lượng chất hóa học trong nước được để
ý thường xuyên và để trong phạm vi 6,0 – 8,0. Cá tự nhiên thì thích một lượng
axit nhỏ hơn là môi trường trung tính.
Độ cứng: 36 – 357
ppm. Cá tự nhiên sẽ sống tốt hơn với độ cứng thấp hơn trong phạm vi này.
Chế độ ăn
Cá tự nhiên có thể ăn
tảo cát, rêu, chất thải hữu cơ, côn trùng nhỏ, ấu trùng, giáp xác, và các động
vật nổi khác.
Trong bể thủy sinh
chúng cũng dễ cho ăn nhưng điều kiện tốt nhất là cung cấp cho chúng những bữa
ăn với thức ăn sống như bọ gậy, bọ nước và artemia (một loài giáp xác) cùng với
các hạt và miếng thức ăn khô chất lượng tốt, ít nhất một vài trong số đó chứa
thực vật bổ sung và phân lượng tảo.
Hành vi và khả năng tương thích
Nói chung chúng khá
hiền lành và là một cư dân lý tưởng cho cộng đồng trong bể thủy sinh.
Vì nó không có yêu
cầu gì đặc biệt về lượng chất hóa học trong nước nên có thể kết hợp với hầu hết
các loài cá thông dụng khác bao gồm các con cá chép nhỏ, cá Tetra, cá bảy màu
(livebearer), cá cầu vồng (rainbowfish), cá rô (anabantoid), cá da trơn (catfish), cá chạch (loach).
Bản chất chúng là
loài sống bầy đàn, và mua bán thì phải ít nhất 6-10 con.
Nuôi chúng với số
lượng như vậy không chỉ giúp chúng bớt sợ hãi mà còn tạo nên một không gian đẹp
hơn, tự nhiên hơn cho bể thủy sinh, và con đực sẽ có màu đẹp hơn khi có sự xuất
hiện của đối thủ cùng loài.
Sự khác biệt giới tính
Con đực trưởng thành
thường nhỏ hơn, mảnh khảnh hơn, và nhiều màu sắc hơn con cái, đặc biệt trong
điều kiện đẻ trứng.
Một vài loài để trang
trí đã được cho giao phối giống để giữ được sắc tốt đỏ một cách ổn định.
Sinh sản
Giống như hầu hết
loài cá chép nhỏ, cá anh đào là loài đẻ trứng tự do không có sự chăm sóc của bố
mẹ.
Trong điều kiện tốt
chúng sẽ đẻ trứng thường xuyên và trong bể thủy sinh một số ít cá mới có thể nở
được mà không cần sự can thiệp.
Tuy nhiên nếu muốn
tối đa lượng sinh sản thì cần phải có cách tiếp cận và kiểm soát nhiều hơn.
Bầy cá trưởng thành
vẫn có thể sống chung nhưng nên có thêm một bể nhỏ.
Bể này nên ít ánh
sáng và chất nền nên được che phủ với một vài tấm lưới đủ rộng để trứng có thể
lọt qua nhưng cũng phải đủ nhỏ để con trưởng thành không chạm được vào chúng.
Những tấm cỏ nhựa cũng có thể được tận dụng giống như lớp đá phủ cỏ.
Thường xuyên thay cho
bể những cây rậm lá như rêu tam giác (Taxiphyllum spp) hoặc dùng lưới lọc
trứng cũng tạo ra kết quả khá tốt.
Môi trường nước nên
có nồng độ axit nhẹ đến pH trung tính với nhiệt độ theo chiều hướng cao trong
phạm vi đã nêu trên, và nên sử dụng máy lọc bọt biển bằng khí nén hoặc quả sủi
để cung cấp oxy và tạo dòng nước.
Khi cá lớn đã được
cung cấp những điều kiện tốt nhất và các con cái đã mang thai thì một hay hai
cặp nên được giới thiệu cho nhau và việc đẻ trứng sẽ diễn ra vào sáng hôm sau.
Một lựa chọn khác là
đẻ trứng trong một nhóm với 6 con đực và 6 con cái nhưng cần có một bể thủy
sinh rộng hơn.
Trong cả hai trường
hợp này cá lớn sẽ có thể ăn mất trứng và chúng nên được vớt ngay ra khi có biểu
hiện như vậy.
Trứng nên nở trong
vòng 24 – 48 giờ và cá mới nở nên bơi tự do trong vòng 24 giờ sau đó.
Trong những ngày đầu
tiên chúng nên được cho ăn bằng trùng cỏ cho đến khi đủ lớn để ăn trùng cám, ấu
trùng artemia, hoặc những thứ tương tự.
Chú ý
Cá anh đào là một lựa
chọn không hạn chế cho người mới bắt đầu và là một trong những loài cá chép nhỏ
có ở khắp nơi trong giới yêu thích thủy sinh.
Đa phần số cá bán ra
đều được nuôi trên cơ sở thương mại và nhiều giống dùng để trang trí đã được
phát triển thông qua chọn lọc phối giống, bao gồm dạng bạch tạng và siêu đỏ.
Chăm sóc cho những giống cá này cũng giống y như cho cá anh đào thông thường.
Chúng ta gần đây chưa
thể có được sự miêu tả chi tiết về các đặc điểm nhận dạng nhưng màu sắc riêng
biệt của chúng khiến chúng ta khó mà nhầm lẫn chúng với các con khác cùng chi
cùng loài.
Barb Cherry là một loài cá cảnh màu sắc đẹp và có hành vi thú vị. Bạn lên nuôi ít nhất 5 barbs Cherry trong hồ.
Barb Cherry là một loài cá cảnh màu sắc đẹp và có hành vi thú vị. Bạn lên nuôi ít nhất 5 barbs Cherry trong hồ.
Nguồn: caxinh
0 nhận xét :