Phân biệt các loại cá bảy màu, guppy

1. Các dạng vây của cá bảy màu
Nhóm cá bảy màu đuôi ngắn (shorttail)
- Đuôi tự nhiên
- Đuôi tròn (roundtail)
- Đuôi thuổng (cofertail/spadetail)
- Đuôi kim (pintail/needletail)
- Đuôi mác (speartail)
Cá Cảnh
Cá Cảnh


Đây là những dạng rất gần với cá hoang dã và được phát triển từ đầu thế kỷ 20. Cá đuôi thuổng (cofertail) là đột biến được George Phillips phát hiện vào thời kỳ Thế chiến thứ 2.
Nhóm cá bảy màu đuôi kiếm (swordtail)
- Song kiếm (doublesword)
- Thượng đơn kiếm (topsword)
- Hạ đơn kiếm (bottomsword)
- Đuôi đàn lia (lyretail)
Cá Cảnh
Cá Cảnh
Mặc dù cá đuôi kiếm xuất hiện ngoài tự nhiên nhưng chỉ có đơn kiếm. Cá song kiếm được phát hiện và phát triển từ năm 1928. Những dòng bảy màu vây lưng dài ngày nay thường mang gien đuôi kiếm.
Nhóm cá bảy màu đuôi rộng (boardtail)
- Đuôi voan (veiltail): dạng đuôi xòe rộng nhưng cạnh cong và góc tròn.
- Đuôi cờ (scarftail/flagtail/dovetail): dạng đuôi cạnh thẳng, đuôi vuông vức hình chữ nhật hay xòe một góc dưới 30 độ.
- Đuôi quạt (fantail): dạng đuôi cạnh thẳng, góc xòe dưới 55 độ.
- Đuôi delta (delta/triangular): dạng đuôi cạnh thẳng, góc xòe 55-75 độ.
Cá Cảnh
Cá Cảnh
Cá bảy màu đuôi voan xuất hiện ở Mỹ vào khoảng giữa thế kỷ 20. Sau đó, nhà lai tạo Paul Hahnel phát triển thành các dòng bảy màu cạnh đuôi thẳng, bao gồm bảy màu đuôi cờ (flagtail), đuôi bồ câu (dovetail) và đuôi quạt (fantail) với góc xòe lớn hơn. Có lẽ ban đầu ông lai cá đuôi voan (veiltail) với cá đuôi khăn (scarftail) và tuyển chọn những cá thể mang đặc điểm của cả hai. Từ những năm 1960, các nhà lai tạo người Mỹ tiếp tục phát triển cá bảy màu cạnh đuôi thẳng thành dạng đuôi delta với góc xòe lên đến 55-75 độ. Đây là dạng đuôi của hầu hết cá bảy màu cảnh (fancy) ngày nay trên thế giới.
Nhóm cá bảy màu vây lưng rộng (board dorsal)
- Vây cao (hi-fin): vây lưng to và vuông vức.
- Vây buồm (sailfin): vây lưng xòe to như cánh buồm
Cá Cảnh
Cá Cảnh
Đây là các biến thể phát triển từ dòng đuôi delta. Chúng được liệt vào danh sách thể loại trong bộ tiêu chuẩn của Hiệp hội Bảy màu Thế giới (WGA).
Nhóm cá bảy màu vây dài (long fin)
- Ribbon
- Đuôi én (swallow)
Cá Cảnh
Cá Cảnh
Vây hậu môn ở cá bảy màu đực phát triển thành cơ quan sinh dục gọi là gonopodium. Đột biến ribbon/swallow khiến bộ phận này quá dài và không thể sử dụng để thụ tinh cho cá cái. Người ta thường lai bảy màu cái vây dài với bảy màu đực bình thường rồi lai tiếp cá thể đời F1 với nhau để thu cá vây dài. Với dòng ribbon, chúng ta sẽ thu được 50% cá ribbon vì ribbon là đặc điểm trội; trong khi với swallow, chúng ta thu được 18,75% cá swallow. Cách lai tạo nữa đòi hỏi kỹ năng thực hành đó là cắt ngắn gonopodium của bảy màu đực vây dài để chúng có thể thụ tinh cho cá cái.
Các biến thể này được liệt vào danh sách thể loại trong bộ tiêu chuẩn của Hiệp hội Bảy màu Thế giới (WGA).
Nhóm cá bảy màu đuôi tưa (merah/crowntail)
Dạng vây với màng vây bị triệt thoái chỉ còn trơ lại tia vây. Biến thể này xuất hiện tại Nhật Bản vào năm 2005. Gien đuôi tưa có lẽ là gien bán trội (incompletely dominant) tức cá thể lai xa giữa merah với cá bình thường phần nào thể hiện kiểu hình “đuôi tưa”.
Cá Cảnh
Nhóm đuôi cá bảy màu cái
- Đuôi vỏ sò (scalloptail/superbra/metropolitan): cá cái của các dòng bảy màu đuôi rộng.
- Đuôi nút chai (wedgetail): cá cái dòng đuôi delta hay đuôi quạt.
- Đuôi thuổng (cofertail): cá cái dòng đuôi thuổng.
- Đuôi tròn (roundtail): cá cái của các dòng bảy màu đuôi ngắn hoặc đuôi kiếm.
Cá Cảnh
2. Các loại màu sắc và hoa văn của cá bảy màu
Màu thân trên
Xám: màu thông thường ở cá hoang dã. Màu này có tính trội so với tất cả các màu khác.
Gold: đây là màu được tạo ra bởi gien hạn chế hắc sắc tố (melanin). Ở Mỹ, màu này được gọi là Blond.
Cá Cảnh
Màu đồng (Bronze/Tiger): vảy có viền đen, thực chất là màu Gold với lớp hắc sắc tố bên dưới.
Cá Cảnh
Bạch tạng (Albino): thân màu trắng vì khiếm khuyết sắc tố.
Cá Cảnh
Mắt đỏ (Red Eye): có hai loại mắt đỏ ở cá bảy màu. Một loại màu đỏ sậm được gọi là mắt albino đỏ vang (Wine Red Eye Albino - WREA). Loại nữa màu hồng nhạt được gọi là mắt albino chính hiệu (Real Red Eye Albino - RREA).
Cá Cảnh
Các loại màu ánh kim:
Metallic: lớp ánh kim dày ở đầu/thân trên. Tông màu thay đổi tùy từng cá thể và điều kiện môi trường. Một số biến thể có lớp ánh kim bao phủ toàn bộ cơ thể chẳng hạn như Full Gold hay Full Green.
Cá Cảnh
Platinum: lớp ánh kim trắng; bao gồm các dòng như Coral và Micariff. Trường hợp lớp ánh kim trắng phát triển toàn thân gọi là Full Platinum.
Cá Cảnh
Coral
Cá Cảnh
Micariff
Cá Cảnh
Platinum
Màu và hoa văn thân dưới
Cobra (Snakeskin): dạng hoa văn ngoằn ngòe như con rắn ở phần thân dưới. Ở Mỹ đặc điểm này được gọi là da rắn (Snakeskin). Thể loại “Solid Snakeskin” (IFGA) là hoa văn dạng sợi liền lạc ở thân. 
Tuxedo (Half Black): toàn bộ thân dưới màu đen trông như đang mặc bộ tuxedo đen. Ở Mỹ đặc điểm này được gọi là Half Black. Một số dòng cá có tuxedo màu khác chẳng hạn như lục và hồng. Dòng tuxedo gốc màu đen do Eduard Schmidt Focke lai tạo.
Cá Cảnh
Màu và hoa văn đuôi
Đơn sắc (Solid): bao gồm những màu đơn sắc như đỏ, vàng, lục, tím, đen… Màu phải đều và không được lẫn tông lạ.
Cá Cảnh
Viền Anh (/English Lace/English Leopard/Old Fashion Leopard): được phát triển bởi George Phillips từ đầu những năm 1950. English Lace được cho là nguồn gốc của tất cả các dạng hoa văn sau này. Từ “lace” ám chỉ viền đuôi nơi hoa văn không phát triển tới hay nhạt dần. Lace ngày nay là dạng hoa văn nhỏ và nhuyễn. Ở Mỹ, yêu cầu về thể loại “Variegated Snakeskin” (IFGA) là hoa văn dạng sợi liền lạc ở thân và đuôi. Cá được liệt vào thể loại này có kiểu hình kết hợp giữa English Lace” và Snakeskin/Cobra. Những cá thể như vậy có thể có nguồn gốc di truyền khác nhau.
Da Báo (Leopard): dạng hoa văn với những đốm có kích thước trung bình trên nền vàng.
Gạch khảm (Mosaic): dạng hoa văn với những đốm to và dính với nhau thành mảng. Dẫu Mosaic là tên do người Nhật đặt nhưng dòng này đã được phát triển từ những năm 1960 ở Đông Đức. Mosaic là kết quả lai xa giữa Tuxedo với cá hoang dã. Tương tự như Grass, cá cái dòng này có đuôi và vây lưng rất to. Đôi khi hoa văn phát triển lên đến thân dưới tương tự như Snakeskin nhưng Mosaic luôn có hắc sắc tố ở đuôi và thân. 
Hạt cỏ (Grass): dạng hoa văn được lai tạo ở Nhật Bản và là một biến thể của Mosaic với những đốm nhỏ li ti như hạt cỏ. Một số giả thuyết về nguồn gốc của dòng cá này: 
a) Vào những năm 1970, cá bảy màu Glass được nhập vào Nhật Bản từ Singapore. Một nhà lai tạo người Nhật lai xa Mosaic với Glass. Vào đầu những năm 1980, dòng Grass ra đời từ những cá thể lai ban đầu này.
b) Mosaic có lẽ được nhập từ Đức vào những năm 1960. Do đó cá dòng Blue Grass trước đây không tạo ra Red Grass.
c) Cũng vào đầu những năm 1980, người Nhật mua cá bảy màu mang gien Bb từ Singapore. Đấy là lý do tại sao dòng Blue Grass hiện nay cũng tạo ra Red Grass vì chúng có lẽ mang gien Bb. 
d) Một câu chuyện khác về nguồn gốc dòng Grass. Một nhà lai tạo người Nhật lai cận huyết Tuxedo Mosaic qua 25 thế hệ trong vòng 10 năm thì vô tình tạo ra bảy màu Grass. 
Các biến thể Grass gồm: Blue Grass được Yutaka Kishima tạo ra bằng cách lai xa với Neon Blue, Red Grass được tạo ra bằng cách lai xa với Red Mosaic, Yellow Grass được tạo ra bằng cách lai xa với Leopard, và một biến thể rất phổ biến khác là Full Metal Blue Grass (lai xa Blue Grass với Moscow). Ngoài ra còn có một biến thể màu gold nhờ được bổ sung gien ánh kim mà người Nhật gọi là Tiger. Khi lai tạo dòng Grass, điều quan trọng là phải lựa chọn cá thể có đặc điểm Grass ở cả đuôi và vây lưng.
Cá Cảnh
Cá Cảnh
Leopard
Cá Cảnh
Variegated Snakeskin (Lace/Cobra/Snakeskin)
Cá Cảnh
Mosaic
Cá Cảnh
Grass
Galaxy: là dạng hoa văn với lớp ánh kim dày. Nhà lai tạo người Nhật Hoshiki Tsutsui phát triển dòng này từ những năm 1990 bằng cách lai xa Snakeskin với Platinum. Có 3 đặc điểm mà một con bảy màu Galaxy chính hiệu phải có: a) lớp ánh kim dày, đặc biệt ở vây lưng và đuôi; b) sọc đứng ở thân dưới và c) đốm đen hình miếng bịt mắt của cướp biển (bandit mark) ở thân trên, gần đầu.
Cá Cảnh
Medusa: các nhà lai tạo Nhật Bản khác phát triển một biến thể tương tự với Galaxy nhưng có tông đỏ trên đuôi là Medusa. Theo Tsutsui, Medusa rất giống với Galaxy thời kỳ đầu.

Nguồn: thienduongcacanh

0 nhận xét :